Sở hữu trí tuệ là gì? Các công bố khoa học về Sở hữu trí tuệ

Sở hữu trí tuệ là quyền đăng ký và sử dụng tài sản trí tuệ, bao gồm bằng sáng chế, nhãn hiệu, mô hình công nghiệp, quyền tác giả, biểu tượng hình ảnh và âm than...

Sở hữu trí tuệ là quyền đăng ký và sử dụng tài sản trí tuệ, bao gồm bằng sáng chế, nhãn hiệu, mô hình công nghiệp, quyền tác giả, biểu tượng hình ảnh và âm thanh, và các ý tưởng, khái niệm, phương pháp độc đáo và kiến thức học thuật. Sở hữu trí tuệ cho phép người sở hữu tận dụng và bảo vệ công lao, sáng tạo và đầu tư của mình, và đồng thời khuyến khích sáng tạo và phát triển kinh tế.
Sở hữu trí tuệ bao gồm các loại tài sản trí tuệ và quyền liên quan đến những tài sản này. Dưới đây là những loại sở hữu trí tuệ phổ biến:

1. Bằng sáng chế: Bằng sáng chế là một tài sản trí tuệ đại diện cho một ý tưởng công nghệ mới, quy trình sản xuất hoặc thiết kế sáng tạo. Người sở hữu bằng sáng chế có quyền độc quyền sử dụng và bán sản phẩm hoặc công nghệ đó trong một khoảng thời gian nhất định.

2. Nhãn hiệu: Nhãn hiệu là biểu thị cho một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể của một doanh nghiệp. Nhãn hiệu có thể là một tên, logo, biểu tượng hoặc một sự kết hợp của những yếu tố này. Người sở hữu nhãn hiệu có quyền đăng ký và sử dụng nhãn hiệu đó mà không bị kẻ khác sử dụng một cách trái phép.

3. Quyền tác giả: Quyền tác giả áp dụng cho các tác phẩm sáng tạo như sách, bài viết, bài hát, phim, bức tranh, và phần mềm. Người sở hữu quyền tác giả có quyền kiểm soát việc sao chép, phân phối và công bố tác phẩm này.

4. Mô hình công nghiệp: Mô hình công nghiệp bảo vệ một thiết kế mới của một sản phẩm công nghiệp hoặc một dạng bày trí mới trong sản xuất hàng hóa. Người sở hữu mô hình công nghiệp có quyền độc quyền sử dụng và bán sản phẩm hoặc dạng bày trí đó trong một thời gian nhất định.

5. Các ý tưởng, khái niệm và phương pháp độc đáo: Ngoài những loại tài sản trí tuệ cụ thể như bằng sáng chế, nhãn hiệu và quyền tác giả, sở hữu trí tuệ còn áp dụng cho các ý tưởng và khái niệm độc đáo mà người sáng tạo đã phát minh hoặc phát triển.

Sở hữu trí tuệ là một phần quan trọng trong việc khuyến khích sáng tạo và phát triển kinh tế. Nó bảo vệ quyền lợi và công lao của các nhà sáng tạo và khuyến khích họ đầu tư thêm vào nghiên cứu và phát triển công nghệ, sản phẩm và dịch vụ mới.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sở hữu trí tuệ":

Những tiến bộ gần đây trong bối cảnh sở hữu trí tuệ của nấm phát sợi Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Tóm tắt

Trong suốt nhiều thế kỷ, nấm phát sợi đã được sử dụng trong sản xuất thực phẩm và đồ uống, và trong vài thập kỷ qua, trong việc sản xuất enzyme và dược phẩm. Trong những thập kỷ gần đây, bối cảnh sở hữu trí tuệ (IP) liên quan đến công nghệ nấm đã chứng kiến một xu hướng tăng trưởng liên tục, giới thiệu những ứng dụng mới đầy hứa hẹn từ việc sử dụng nấm. Trong bài tổng quan này, chúng tôi làm nổi bật các đơn đăng ký sáng chế liên quan đến nấm được công bố trong 5 năm qua (2015–2020), xác định các nhân tố chính trong từng lĩnh vực, và phân tích xu hướng tương lai. Những phát triển mới trong lĩnh vực công nghệ nấm bao gồm việc tăng cường sử dụng nấm phát sợi như một nguồn thực phẩm (mycoprotein), sử dụng nấm làm vật liệu phân hủy sinh học, trong xử lý nước thải, trong các nhà máy sinh học tích hợp và như là tác nhân sinh học kiểm soát dịch hại. Các công ty công nghệ sinh học ở châu Âu và Mỹ hiện đang dẫn đầu về số lượng bằng sáng chế trong những lĩnh vực này, nhưng các công ty và viện nghiên cứu ở châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc, đang trở thành những nhân tố quan trọng ngày càng tăng, chẳng hạn như trong bào chế thuốc trừ sâu và thực hành nông nghiệp.

BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI CHƯƠNG TRÌNH MÁY TÍNH THEO PHÁP LUẬT NHẬT BẢN VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Tạp chí Pháp luật và thực tiễn - Số 48 - Trang 104 - 2021
Bài viết phân tích việc bảo hộ chương trình máy tính theo pháp luật Nhật Bản dưới hai cơ chế: Bảo hộ quyền đối với sáng chế và bảo hộ quyền tác giả. Từ đó, nêu ra một số đánh giá về ưu điểm và hạn chế của hai hình thức bảo hộ này để hoàn thiện quy định về bảo hộ chương trình máy tính tại Việt Nam.
#Chương trình máy tính #sáng chế #quyền tác giả #sở hữu trí tuệ
Mô hình cấu tạo thuật ngữ Luật sở hữu trí tuệ tiếng Anh
Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu cấu tạo của 375 thuật ngữ luật sở hữu trí tuệ tiếng Anh được thu thập từ Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới; Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về patent; Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp; Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng; Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa và Nghị định thư liên quan đến Thỏa ước Madrid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa; Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Hiệp ước luật nhãn hiệu hàng hóa; Hiệp ước Washington về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp. Chúng tôi sẽ phân tích những mô hình cấu tạo thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Anh dựa trên những bình diện như khái niệm yếu tố cấu tạo thuật ngữ; mô hình cấu tạo thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Anh; nhận xét, đánh giá về việc cấu tạo thuật ngữ sở hữu trí tuệ tiếng Anh.Từ khóa: Thuật ngữ, yếu tố, cấu tạo, mô hình, luật sở hữu trí tuệ.
Đào tạo thạc sĩ chuyên môn chuyên ngành Sở hữu trí tuệ và Quản lý Sở hữu trí tuệ tại Nhật Bản
Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn - Tập 4 Số 6 - Trang 814-827 - 2019
Từ ngày 01/4/2004, một số trường đại học của Nhật Bản bắt đầu triển khai chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên môn chuyên ngành Sở hữu trí tuệ và chuyên ngành Quản lý sở hữu trí tuệ. Bên cạnh giới thiệu chung về hình thức đào tạo thạc sĩ chuyên môn, nghiên cứu sẽ này tập trung phân tích những đặc trưng, tồn tại của mô hình đào tạo thạc sĩ chuyên môn chuyên ngành Sở hữu trí tuệ, chuyên ngành Quản lý sở hữu trí tuệ của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đề xuất một số gợi ý cho việc xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội, và xu hướng chung của thế giới. Ngày nhận 05/7/2018; ngày chỉnh sửa 02/8/2018; ngày chấp nhận đăng 20/11/2018 DOI: https://doi.org/10.33100/tckhxhnv4.6.NguyenPhuongThuy
#thạc sĩ chuyên môn #Sở hữu trí tuệ #Quản lý Sở hữu trí tuệ.
XÂY DỰNG BỘ CÔNG CỤ TRA CỨU ĐĂNG KÝ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ÁP DỤNG CHO CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Tạp chí Pháp luật và thực tiễn - Số 53 - Trang 121 - 2022
Quy trình đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) ngày càng trở nên toàn cầu hóa với các tiêu chuẩn thống nhất, mức độ bảo vệ cao, nhanh chóng và hiệu quả. Các doanh nghiệp trên cả nước nói chung và doanh nghiệp tại tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng cần hiểu rõ hơn về sự cần thiết của việc tra cứu trong quá trình nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền SHTT. Bài viết đề cập đến tra cứu, đăng ký bảo hộ quyền SHTT, đề xuất xây dựng Bộ công cụ tra cứu nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc tra cứu đăng ký bảo hộ quyền SHTT áp dụng cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
#Tra cứu #đăng ký #sở hữu trí tuệ #doanh nghiệp #Thừa Thiên Huế
MỘT SỐ HỌC THUYẾT CỔ ĐIỂN BIỆN MINH CHO VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Sở hữu trí tuệ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt thì tài sản trí tuệ lại trở thành nguồn vốn mang tính quyết định. Có nên bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp pháp lý hay không? hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ nào là những tranh luận nhận được nhiều sự quan tâm của các học giả trong lịch sử triết học pháp lý. Cho đến nay, có 3 học thuyết gồm: thuyết lao động của John Locke, thuyết vị lợi của Jeremy Bentham và John Stuart Mill và thuyết nhân cách của Heghen được xem là những biện minh kinh điển cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Trong bài viết này, tác giả sẽ trình bày cách thức mà các học thuyết trên được áp dụng để biện minh cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
#học thuyết #sở hữu trí tuệ #biện minh #bảo hộ
ĐÁNH GIÁ TÍNH KHẢ THI VÀ TƯƠNG THÍCH VỀ NHÃN HIỆU NỔI TIẾNG TRONG DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ VỚI CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Tạp chí Pháp luật và thực tiễn - Số 52 - Trang 25 - 2022
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019 đã đề cập đến nhãn hiệu nổi tiếng. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng vẫn còn nhiều bất cập, chưa khả thi và tương thích với các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, và thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam. Mục đích của bài báo là đánh giá sự tương thích, phù hợp và chưa tương thích trong quy định của Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành với các Điều ước quốc tế và thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng tại Việt Nam, từ đó đề xuất phương án chỉnh lý cụ thể về nhãn hiệu nổi tiếng.
#Khả thi #tương thích #Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung Luật sở hữu trí tuệ #nhãn hiệu nổi tiếng.
Quyền sở hữu trí tuệ và việc thương mại hóa nghiên cứu và phát triển Dịch bởi AI
Science and Engineering Ethics - Tập 11 - Trang 203-219 - 2005
Mối quan tâm về việc thương mại hóa nghiên cứu đang gia tăng, đặc biệt trong việc thử nghiệm các loại thuốc mới. Vấn đề này liên quan đến những giả định đơn giản hóa và phân cực về nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như quyền sở hữu trí tuệ (IP). Để giải quyết vấn đề này, bài báo này đề xuất một quy trình RT&D ba giai đoạn phức tạp hơn, bao gồm Nghiên cứu Khoa học (R), Đổi mới Công nghệ (T) và Phát triển Sản phẩm Thương mại (D) hoặc quy trình RT&D. Nghiên cứu khoa học và thử nghiệm đổi mới liên quan đến những công việc trí tuệ tốn kém và không sản xuất hàng hoá miễn phí, mà thực tế yêu cầu phải có quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Các quy trình RT&D liên quan đến một sự chuyển dịch quyền sở hữu trí tuệ chưa được công nhận từ quyền sở hữu trí tuệ chung đối với hàng hóa công cộng như thông tin và kiến thức sang quyền sở hữu trí tuệ riêng trong các sản phẩm và tài sản hữu hình khác. Vấn đề đặt ra là, loại quyền sở hữu trí tuệ nào: riêng tư hay chung? Bởi vì nghiên cứu khoa học và thử nghiệm đổi mới yêu cầu tính minh bạch về những phát hiện bất lợi, cũng như việc phân phối kết quả rộng rãi và với chi phí thấp, chúng cần một quyền sở hữu trí tuệ chung, mang tính bao trùm. Quyền sở hữu trí tuệ chung là phù hợp với cả việc chia sẻ hàng hóa tri thức và thu hồi chi phí sản xuất. Hơn nữa, nghiên cứu tương thích với thương mại hóa và sự hỗ trợ từ các lợi ích xã hội khác. Mặt khác, nó không tương thích với quyền sở hữu trí tuệ riêng biệt mang tính loại trừ cho phép công bố hạn chế hoặc hoàn toàn bóp nghẹt thông tin. Quyền sở hữu trí tuệ riêng tư thay vì thương mại hóa lại mâu thuẫn với những yêu cầu về tính minh bạch trong nghiên cứu khoa học và thử nghiệm đổi mới. Tuy nhiên, nguồn tài trợ thương mại về nguyên tắc là tương thích với nghiên cứu và thử nghiệm, đặc biệt khi được điều chỉnh bởi một quyền sở hữu trí tuệ chung. Điều này phản ánh một quan điểm thực dụng về sự kết nối cơ bản giữa tri thức và các lợi ích xã hội khác.
Thực trạng nhận thức về giáo dục sở hữu trí tuệ cho sinh viên các trường đại học tại tỉnh Bình Dương
Tạp chí Giáo dục - Tập 22 Số 19 - Trang 41-47 - 2022
Along with socio-economic development, the legal system on intellectual property has been increasingly improved. The system of documents and laws protecting intellectual property rights in Vietnam is a condition for promoting and developing relations on intellectual property rights and technology transfer in Vietnam in the process of national industrialization and modernization, as well as international integration. The effectiveness of intellectual property education activities for students would exert a significant influence on improving the quality of education and training at universities, gradually raising the rate of learning quality of students and building up the institution’s status, reputation and brand. On the basis of assessing the current situation of intellectual property education for university students, the author proposes a number of measures to improve the efficiency of intellectual property education for students at some universities in Binh Duong province.
#Current situation #intellectual property #university #students
Tổng số: 44   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5